Ring ring
HOA TAY--- - Cậu chuẩn bị để cùng tôi thay mặt dân phố đi thăm tết thằng Chiến, nghe. Ông Thế, tổ trưởng khu phố nói với tôi vậy. Tôi đã có kế hoạch Nguyên Đán này đi rong ở miệt vườn, đón giao thừa trên trên sông Tiền, ngày mai lên đường rồi, chẳng lẽ dừng lại để đi tìm thăm tết một người dưng ở heo hút rú khe? Tôi bèn tìm cách nói khó: - Nào đã biết đích xác anh ta ở đâu mà thăm thú. - Hắn ở xã Lộc Tấn, huyện Lộc Ninh? Cứ đến ủy ban xã là lần ra được nhà cái thằng vừa ra khỏi nhà đá ấy, bây giờ các địa phương quản lý dân nhập cư chặt lắm. Cậu cũng nên đến xem hoa tay của anh ta độ này ra sao? Nếu tiện, ta xin một câu đối về chưng tết, thú vị lắm đó. Tôi suýt reo lên, đâu ngờ ông tổ trưởng dân phố cục mịch quê kiểng của chúng tôi vẫn nhớ đến tài viết chữ của anh Chiến. Ngày còn ở khu phố này, cứ đến áp Nguyên Đán là anh Chiến biếu những gia đình thích chơi chữ mỗi nhà đôi câu đối, hay bài thơ, hoặc một câu lời vàng ý ngọc, được lồng trong khung kính để chưng tết. Anh viết chữ theo kiểu thư pháp, rồng bay phượng múa, vô cùng tài hoa, nhiều người gọi là tranh chữ của thầy Chiến. Dân ta vốn trọng người có chữ nên họ gọi Chiến là thầy. Không biết từ lúc nào người ta đồn ba ngày tết thờ tranh chữ của Chiến sẽ gặp may mắn cả năm nên cứ đến gần tết là dân khu phố đến xin chữa anh về trưng ở khách. Ông Thế nói tiếp: - Cậu với thằng Chiến cùng quê, phải không? Đúng vậy, Chiến sinh ra ở làng Thịnh Văn, cách làng Phúc Nghĩa của tôi đâu ba cây số, nhưng tính khí dân hai làng khác nhau lắm. Dân làng tôi thích làm việc nặng, bạt núi dựng nhà, khai khẩn những triền đồi trọc sim mua thành đất trồng sắn, chè, ngăn sông đắp đập, đào kênh, mương dẫn nước vào ruộng. Cái làng Thịnh Văn của Chiến làm nghề thủ công, đan lát thúng mủng, dần sàng, và nổi tiếng ham học, trong lúc tay cài đan, mắt vẫn liếc trang sách để bên, miệng vẫn gieo vần, nối thơ, ra câu đối cho nhau. Đó là một địa chỉ văn hóa, một trong những làng học của xứ Nghệ. Ngày trước những ông thầy ở Thịnh Văn biết luyện cho học trò thi đậu nên nhà giàu ở các làng trong huyện, trong tỉnh thường đưa con đến đó học. Dân làng quan niệm, lập thân trước hết phải luyện chữ, chữ viết thể hiện tính cách con người. Hàng năm, vào ngày rằm tháng giêng, làng tổ chức thi viết chữ đẹp. Ngoài việc làm vườn, người có học trong làng thường viết câu đối để bán ở chợ Gôi, chợ Choi trong dịp xuân về, tết đến. Chữ của những ông đồ làng Thịnh Văn hay đến độ các ông đồ huyện khác khâm phục. Những năm học phổ thông, nhiều phen Chiến đoạt giải thi viết chữ đẹp. Vào bộ đội, Chiến chỉ làm mỗi một công việc là viết giấy khen thưởng, trang trí hội trường. Nói theo ngôn ngữ của lính là nghề đóng đinh leo thang. Chiến đóng quân ở đâu, dân ở đó đều có những bức trướng viết theo kiểu thư pháp để chưng treo ở nhà. Phòng khách mà có một bức trướng bằng chữ thảo một bài thơ nổi tiếng nào đó thì sang hẳn. Người có học vị cao trong khu phố tôi đều nói vậy. Cuộc đời anh Chiến thăng hoa nhờ viết chữ đẹp. Nét chữ của anh làm mê mẫn bao nhiêu người. Một cô gái đẹp ở Bình Dương, tên là Lệ, đã bị chữ anh viết hút hồn, đã vượt qua sự ngăn cản của cha mẹ, sự đàm tiếu của bạn bè, ôm đồ áo đến làm tình nguyện làm vợ anh. Nghe đâu thời gian đầu mới sống với nhau, thỉnh thoảng chị lật bàn tay anh xem chỉ và lấy làm hãnh diện vì tài viết chữ đẹp của chồng. Chơi chữ, chưng chữ, thờ chữ, đó là thời chữ nghĩa đang được quí, còn bây giờ thời cắt chữ bằng máy vi tính liệu có ai treo chữ trong nhà? Hơn thế, đánh đường đi vài trăm cây số để xin câu đối về chưng tết, có mà khùng! Như đoán được sự ngần ngại của tôi, ông Thế dồn tiếp: - Nhiều lần cậu lảng việc khu phố giao, bà con không bằng lòng đâu. Cho cậu hay, sau này cơ quan cậu lấy ý kiến sự tín nhiệm của nhân dân địa phương với cậu đấy. Nghe ông nói vậy, tôi vội gật đầu: - Vâng, vâng, để tôi đi. Tôi biết có từ chối cũng không xong với ông tổ trưởng dân phố này. Mỗi khi ông bấm chuông nhà nào là biết tiền phải ra khỏi nhà rồi. Sống ở phố phải đóng góp thường xuyên, nào là quĩ dân phòng, xóa đói giảm nghèo, làm nhà tình thương, ủng hộ vùng bị thiên tai. Thôi thì đủ thứ tiền. Mỗi khi nghe chuông cổng, ngó ra thấy dáng thấp đậm của ông đứng như cắm bên cửa chờ là liệu mà mở hầu bao. Ông nói về khoản thu như ra lệnh, đợi chủ nhân đưa tiền ra bằng được mới chịu qua nhà khác. Thôi thì, đóng đi để ông biến khỏi cửa cho nhẹ mắt. Giờ đây ông khoanh tay thuyết phục tôi: - Chúng ta đi cho có tình người cùng phố, cậu có nhớ thời anh ấy làm tổ trưởng? Câu nói ấy khiến tôi mềm lòng. Phải, anh Chiến đã giúp khu phố trong đó có tôi nhiều lắm. Đó là vào khoảng dầu năm chín mươi, mỗi gia đình chúng tôi được chia một trăm mét vuông ở bãi đất trống, mấp mô gò đống, vũng lầy phập phềnh bè rau muống, cụm bèo tây, nằm ven sân bay này. Cầm giấy chủ quyền sử dụng đất, nhưng chẳng ai dám nghĩ đến chuyện dựng nhà. Có người tính bán. Nhưng anh Chiến ngăn lại. Cô bác yên tâm, tôi sẽ giúp bà con dựng bằng được nhà. Anh nói vậy. Anh lấy cái tài hoa tay và cách ăn nói có duyên , để ngoại giao, giúp cho dân phố có nhà. Dạo ấy, vật liệu xây dựng khan lắm, anh lên mạn Long Khánh kẻ bảng hiệu cho các trụ sở chính quyền địa phương để đổi lấy đá về làm móng. Anh đến nhà máy xi măng Hà Tiên mua xi măng rời, giá rẻ như cho về xây. Ông giám đốc nhà máy mê thơ, sáng tác rất nhiều thơ, tôi phải bò ra cả tuần để chép thơ ông ta theo lối thư pháp vào cuốn sổ to mới mua được thứ keo kết dính gạch với giá như biếu không này đấy. Anh nói hãnh diện. Rồi anh tới cơ sở sản xuất tấm lợp xin loại thứ phẩm để về tấp mái. Tôi phải kẻ nhãn hiệu nhà máy lên bức tường cao cả chục mét của tòa nhà văn phòng để đổi thứ tấm lợp này. Nhờ anh mà các gia đình đều có chốn nương thân. Chưa hết, anh còn chạy đến các nơi liên hệ kéo điện dùng, bắc ống dẫn nước sinh hoạt, đặt ống thoát nước thải, rải nhựa các con hẻm. Đến đâu anh cũng đem cái hoa tay của mình ra thu phục thiên hạ. Lộc tay anh cả khu phố được hưởng. Ơn ấy làm sao chúng tôi quên nổi. Ông Thế nói, giọng bâng khuâng: - Dạo anh ấy làm tổ trưởng, tết đến khu phố ta được chưng những khẩu hiệu viết thật đẹp. Chữ anh ấy viết có hồn vía, còn thứ chữ cắt bằng vi tính cứ trơ ra, mới ngó đã tức đến nổ mắt. Chúng tôi đi xe đò lên Lộc Ninh vào sáng ngày hăm sáu tháng Chạp. Gió lạnh, gợi không khí nguyên Đán đang tới gần. Ông Thế hỏi tôi: - Cậu có tin thuyết tài mệnh tương đố không? Tôi khẽ lắc đầu. Ông nói: - Tôi tin lắm. Nếu như anh Chiến chỉ là người không có hoa tay như bọn ta chắc anh ấy sẽ có một cuộc sống bình thường, đằng này anh ấy tài quá, anh hoa phát tiết ra hai bàn tay nên trời đất ghen nên mới đày như vậy. Không phải vậy, nhưng tôi không dám tranh luận với ông Thế. Ông Thế có tính hiếu thắng và hễ cãi nhau là gân cổ nổi lên, nói như quát, át tất cả. Đứng về phương diện cãi nhau, ông già gốc Quảng Nam này chưa hề chịu thua ai. Tôi biết, tai hoạ của anh Chiến bắt đầu từ ông Xoàn, Tổng giám đốc khu chế xuất Nam Sài Gòn. Nhà ông Xoàn ở đường Trường Sơn, cách đường phố chúng tôi ở chỉ non nửa cây số. Tài viết chữ đẹp, tính tháo vát của anh Chiến đã lọt vào mắt xanh ông tự bao giờ. Những lúc rỗi, vị Tổng giám đốc hói đầu này thường đến nhà xem anh Chiến viết chữ, mà ông thường gọi là vẽ chữ. Cho đến hôm, ông đến nhà anh Chiến, sau tuần trà, ông nói: - Chú khá lắm. Chú là người tôi đang tìm đấy. Ông cho anh Chiến hay, trong khu chế xuất Nam Sài Gòn do ông phụ trách có đến mấy trăm công ty, xí nghiệp, hàng ngàn công nhân. Hai ngày nghỉ cuối tuần họ đều chuí đầu vào các cỗ bài, bàn nhậu, hay đốt thời gian trong quán cà phê đèn mờ. Cần phải có người tập hợp họ vào câu lạc bộ văn hóa. Nghe ông nói vậy, anh Chiến phân vân, mình đã cầm sổ hưu rồi, có nên nhảy ra làm việc nữa không? Ông Xoàn đặt tay lên ngực rồi búng nhẹ lên trán anh: “ Chú hãy đánh thức con tim và khối óc đang ngủ này dậy, đem tài năng phục vụ con người”. Anh Chiến cúi mặt mắc cỡ. Nhưng ông Xoàn vẫn nói, ông nói về chân tài thời nào cũng hiếm, nó là nguyên khí của quốc gia. Tài năng của một người phải do người ngoài nhận biết. Mà không phải ai cũng nhận ra người tài, vì người tài thường sống giản dị, khiêm nhường, bị che khuất bởi số đông bất tài” . Nghe ông Tổng giám đốc hót vậy, mũi anh Chiến rựng phỗng lên như trái cà chua chín. Rồi ông kết luận: “ Tài của chú có thể sánh với Lan Đình, Tào Mạt, nhưng chú hơn những người ấy ở chỗ, chú có tính tháo vát, bằng tay trắng chú đã dựng lên một dãy phố, một khu phố. Thế rồi anh Chiến nhà tôi được bổ nhiệm là giám đốc Câu lạc bộ văn hóa doanh nhân khu chế xuất Nam Sài Gòn. Có văn phòng, có chức danh hẳn hoi. Bữa ra mắt xôm trò đáo để, các phóng viên truyền hình khệ nệ vác máy quay phim, nhà báo viết vai mang túi, máy ảnh, tay cầm sổ đứng lố nhố khắp nơi. Giám đốc Chiến diện vés xám, áo lót cổ cồn trắng, thắt cà vạt vàng, dõng dạc đọc diễn văn dài hơn một giờ, lời lẽ bóng bẩy, nhưng chẳng có ý tưởng gì mới mẻ, nhưng vẫn được người nghe vỗ tay dậy lên. Tiếng vỗ tay vì phong bì khá nặng và bữa tiệc đứng chắc chắn rất thịnh soạn đang chờ ở phòng bên. Còn bài phát biểu miệng của Ông Xoài mới là trọng tâm, ông nói đến phải trang bị cho công nhân, cho người quản lý kinh tế kiến thức văn hóa, văn nghệ, rằng xã hội muốn phát triển bền vững, văn hóa phải đi trước một bước, tạo nên môi trường sống nhân văn và cho con người ta phẩm chất tốt đẹp. Đồng chí Tống Trần Chiến là cái đầu tàu của khu chế xuất Nam Sài Gòn này. Từ khi được thăng chức giám đốc Câu lạc bộ văn hóa doanh nhân, cuộc sống của anh Chiến thay đổi hẳn, sáng nào cũng có xe hơi đến tận cổng nhà rước, đến sẫm tối, có khi tới khuya mới trở về. Mỗi khi xe dừng, cậu lái xuống mở cửa, đưa tay lên đầu anh Chiến như sợ đụng phải thành xe. Có đêm mưa, vừa bước xuống, Chiến ta vội đến chân cột điện vạch quần, cậu lái giương ô che cho Chiến đái! Đến vua chúa cũng được hầu đến vậy là cùng. Chiếc cặp da bóng lộn bên người Chiến căng phồng. Nhiều thứ giấy tờ quan trọng lắm, cậu à. Anh hăm hở nói và cho tôi xem những bản hợp đồng kinh tế với ngân hàng, với các xí nghiệp, công ty, hóa đơn tiếp khách. Cậu thấy đấy, mỗi bản hợp đồng cỏn con này nhưng giá trị bạc tỷ. Tôi ngốt mắt. Anh đắc chí: - Con người ta có bắt tay vào làm việc mới biết mình có những năng lực khác thường. Tài năng của tôi đâu dè phát ở lĩnh vực văn hóa kinh tế. Văn hóa kinh tế, nghe anh thao thao mà tôi chẳng hiểu ất giáp gì cả. Cũng chẳng dám hỏi vì sợ anh chê dốt, lạc hậu với thời cuộc. Vóc dáng anh cũng đã thay đổi người có bụng, mặt căng bóng, ánh mắt lấp lánh tự tin. Đâu còn anh Chiến tổ trưởng dân phố nước da sốt rừng, bộ quân phục cũ nhàu, màu nước dưa, lúc nào cũng đôn đáo đi liên hệ công nhân đến sửa chữa lưới điện, mắc điện kế, điện thoại cho bà con trong phố nữa. Anh nói với tôi: - Ngày xưa Nguyễn Công Trứ ở tuổi bảy mươi vẫn lãnh đạo nông dân đắp đê lấn biển, xẻ đồng thành kênh thủy lợi, bây giờ có anh Chiến của cậu đã cầm sổ hưu vẫn làm giám đốc, đưa văn hóa đến với các nhà doanh nghiệp. Anh Chiến đâu có phét lác, hàng tuần anh đã tổ chức cho các nhà doanh nghiệp giao lưu văn hóa, mời văn nghệ sỹ đến nói chuyện thơ văn, tổ chức hội diễn ca hát ở khu chế xuất và được đài truyền hình trực tiếp truyền trực tiếp cho bàn dân thiên hạ cùng thưởng thức. Trong những buổi giao lưu ấy, anh Chiến đạo diễn, dàn dựng và kiêm luôn dẫn chương trình. Danh tiếng của anh nổi như cồn. Thỉnh thoảng tôi mới được gặp anh, thường là khi về khuya, tôi ra đầu phố ăn cháo hoa để lấy sức về đọc sách. Một lần, tôi gặp xe đưa Chiến về đến đầu hẻm, anh nhoài ra, người nồng hơi men, anh ta chỉ mặt tôi: - Tránh ra cho ta đi, hỡi thằng viết báo thông tấn kia. Tôi chỉ biết ngậm ngùi nín lặng đi thật nhanh như chạy trốn con người vừa được chức, được tiền ấy. Phải, tôi biết mình kém cõi trong việc kiếm tiền. Đâu được như anh, một giám đốc văn hóa doanh nhân của khu chế xuất lớn nhất nước. Chồng có chức quyền, vợ được cậy, người lên hương nhất vẫn là chị Lệ. Mặt chị bừng ửng, mắt lóng lánh, chị nói, chị cười, thật rạng rỡ. Lần đầu tiên ngó bàn tay anh ấy, tôi biết thế nào ảnh cũng có vị trí xứng đáng trong xã hội. Vậy tôi mới khước từ lời cầu hôn của anh con trai nhà có hàng chục héc ta vườn cây ăn trái ở Lái Thiêu, có tiệm sửa xe hơi ở Bình Mỹ để theo ảnh chớ. Đâu dè ảnh phát giám đốc khi đã cầm sổ hưu. Chị nói vậy. Và chị được nhập vào câu lạc bộ phu nhân giám đốc. Chị mướn người giúp việc nội trợ. Chị đến các siêu thị lớn sắm đồ, lúc nào cũng diện quần áo lùa thùa như đào cải lương. Giám đốc Chiến hành sự được đâu bốn năm. Bốn cái tết dân khu phố tôi không còn được anh cho chữ để chưng tết. Tôi mắc bận lắm, thời gia đâu mà hầu mấy con chữ cho bà con được. Anh nói vậy. Chúng tôi cũng biết anh đã là người của quốc gia, đang làm chuyện lớn, cả nước sẽ được hưởng tài của anh, đừng vì ba cái chữ để xài riêng trong từng nhà mà làm ảnh hưởng cái sự nghiệp lớn anh đang thực thi. Nhưng hỡi ôi, được mất ở đời này ai mà lường được, trong lúc tôi đang thầm phục Chiến, thì đùng một cái anh bị khởi tố vì tội lạm dụng chức quyền gây hiệu quả nghiệm trọng. Anh đã làm thất thoát của nhà nước năm tỷ đồng, bị khởi tố, tay tra vào còng đưa vào nhà giam, đợi ngày hầu tòa. Đến lúc này chúng tôi mới hay, anh đã lấy giấy chủ quyền nhà để vay ngân hàng đến hai lần. Và còn làm giả giấy tờ gì đó để vay hai tỷ. Trong giờ nghỉ trước khi toà luận tội, anh nói với tôi: - Tôi đâu ngờ sự thể thế này. Bây giờ tính sao cậu. Vào tù chứ làm sao nữa. Tôi nghĩ . Anh bị kết án năm năm tù giam, ngôi nhà bị ngân hàng xiết nợ. Vợ anh vội đưa con về gửi nhờ ba má đẻ. Chị bàng hoàng, đâu dè tai họa giáng lẹ đến tế. Chị cũng chẳng biết làm gì để sinh sống, mà cái tính thích ăn ngon mặc đẹp đã nhiễm vào người từ lúc nào, không thể dứt nổi. Rồi nghe đâu, chị trở thành gái bao của một người Hàn Quốc làm ở xí nghiệp may nào đó. Khi tay này về nước, hắn sang cho một thằng kế nhiệm. Sau một thời gian thằng cha ấy đã bỏ của chạy lấy người. Không còn đất sống ở đây, chị dạt sang Campuchia. Không biết số phận người đàn bà ấy hiện nay ra sao? Thời gian Chiến thi hành án, hàng năm cứ vào dịp giáp tết, khu phố tôi cử người đến thăm, tặng quà. Mấy lần ông Thế cử tôi, nhưng tôi kiếm cớ thác bằng được. Sau khi thi hành án, Chiến không dám trở về khu phố cũ, mà về đây cũng chẳng biết ở đâu, bây giờ tôi mới hay anh đang làm rẫy ở miệt Lộc Ninh. Đến thị trấn Lộc Ninh chúng tôi đi hon đa ôm vào xã Lộc Tấn. Hai bên đường là rừng cao su đang mùa thay áo, lá rụng phủ rực đường lô. Con đường nhựa đen nháng, hun hút giữa hai vòm cây tưởng như dài vô tận. Tiếng chim gõ kiến vọng đến đều đều, không gian yên tĩnh. Đến gần trụ sở ủy ban xã, ông Thế đã chỉ tấm biển trước cửa, reo lên: - Chữ của thằng Chiến kìa! Đúng là chữ của anh Chiến, dù anh viết theo lối chân phương vẫn nhận ra. Vừa gặp chúng tôi, chị chủ tịch xã đã hớn hở khoe: - Tất cả các khẩu hiệu, bảng niêm yết qui chế của ủy ban xã đều do anh Chiến viết. Hiện nay nhà anh nhiều người mướn viết câu đối để chưng Tết. Tôi hỏi dồn: - Ở chốn rú bụi này người ta vẫn thờ chữ đến thế sao? Chị chủ tịch nói, giọng nhỏ nhẹ: - Được làm chủ ruộng đất, mấy năm nay mủ cao su, hàng nông sản, được giá, đời sống nhân dân khá hẳn, nhiều người tìm thú phong lưu qua chơi tranh, chơi chữ. Vả lại không biết từ khi nào, người ta cho rằng ngày Nguyên Đán trong nhà treo chữ của anh Chiến cả năm sẽ gặp may mắn. Thế là ai cũng muốn có một bức tranh chữ của anh ấy. Trên đường dẫn chúng tôi đến thăm nhà anh Chiến, chị chủ tịch cho hay, cái ấp Đổi đời Chiến đang ở phần lớn là dân sau khi mãn hạn ăn cơm tù, không còn nơi nương tựa, đến đây làm lại cuộc đời. Trong đó có nhiều người có học vị, từng giữ những chức tước khá cao. Trong xã, chỉ ấp Đổi đời là có nhà văn hóa, có phòng đọc sách, có sạp báo. Tất cả đều nhờ anh Chiến mà có. Chúng tôi đang lấy ấp này làm điển hình để các ấp khác làm theo. Chị nói. Không biết ai báo trước, Chiến chờ chúng tôi ở cửa. Nom anh kiện tráng như thanh niên, da bánh mật, dáng nhanh nhẹn, cho dù nửa mái đầu đã hoa râm. Tuy túi mắt đã trĩu xuống. Chẳng lẽ cơm tù, sống ở chốn giữa rừng cây lấy mủ này khiến anh khỏe ra vậy? Anh nói: - Ở đây tuy chốn heo hút rừng rú nhưng đầu xã có chuyện gì, cuối xã lập tức biết. Hơn thế, nhà tôi khách ra vào thường xuyên nên có chuyện gì xảy ra là người ta báo cho tôi liền. Tôi nhận được tin khi các anh đang vào trình báo ở ủy ban xã. Nhà của Chiến cất theo lối nhà rường Nam Bộ, ba gian toàn gỗ thau lau vàng và căm xe nâu. Trên những thân cột có những câu đối chạm khắc thật sắc nét. Và rất nhiều câu liễn nghênh tết, mừng xuân, viết trên giấy dó, mành tre trúc, bảng gỗ. Anh viết chữ Quốc ngữ theo lối thư pháp. Nét chữ chân phương thì thật chân phương, bay bướm rấy bay bướm, lắm khi uốn lượn theo kiểu viết chữ Hán thời xưa. Tôi liếc nhìn nội dung, những lời cầu mong giàu sang, phú quí, nghĩa là vẫn theo kiểu chúc tết phúc, lộc, thọ, khang, ninh như thời não, thời nào. Trời, đâu dè đã sang thời này người ta vẫn hảo cũ đến thế? Chiến nói như thanh minh: - Ai yêu cầu gì, tôi viết vậy. Ý tứ của họ, tôi chỉ là người thể hiện chữ. Tôi hỏi: - Anh sống ở đây chắc yên tĩnh lắm? Chiến cười to: - Thì đã dạt đến chốn giáp hông đất nước này không yên sao được. Tôi có bảy công vườn cao su, mướn người làm, chứ người đã có tuổi còn sức đâu mà trần lưng ra dưới nắng để cuốc đất, trồng cây. Cái việc chính của tôi hàng ngày là kẻ bảng hiệu, viết chữ, cũng là một cách kiếm thêm thu nhập. Chị chủ tịch nói: - Anh Chiến giúp chính quyền địa phương nhiều việc lắm, nhất là trang trí hội trường, sân vận động khi có hội lớn. Ngoài ra anh còn kẻ khẩu hiệu cho các trường học. Có người đến tìm, chị chủ tịch về trụ sở giải quyết công việc. Chiến đưa chúng tôi đi xem vườn cây cảnh. Những gốc si, cây đa, những búi cây giống hệt cây mây. Chưa bao giờ tôi thấy vườn cây cảnh như thế này. Các loại cây này tôi lấy trong rừng đó. Điều quan trọng của cây cảnh thuộc về tài năng của nghệ nhân, khi ở rừng là cây dại, nhưng đem về, cho vào bình, vào chậu, tỉa tót, uốn nắn, tạo dáng, là thành cây cảnh quí. Anh nói. Khi chúng tôi trở vào nhà, một người đàn ông vóc dáng đẫy đà, cầm tờ giấy khổ lớn, láng bóng từ ngoài ngõ nện những bước chân đi vào. Đến sân, anh ta phô rất hách: - Thằng Chiến! Viết giùm tao mấy chữ để chưng tết, mầy? Anh Chiến chạy ra thềm đưa hai tay đón tờ giấy, giọng anh ra chiều cung kính lắm: - Mời anh Sáu dùng nước đã. - Thôi, dẹp chuyện nước nôi đi. Mầy viết lẹ lên, tao mắc nhiều công chuyện quan trọng, thì giờ đâu mà trà nước, chuyện vãn với mầy. - Thưa, viết chữ gì, anh Sáu? - Mầy viết câu cát tường như ý. - Nhưng tôi không biết chữ Hán. - Ủa, ai biểu mày viết chữ đó làm chi. Mầy cứ viết bằng chữ ta mà. Chiến căng tờ giấy ra bàn, lấy bút lông viết. Tay anh như múa trên tờ giấy. Một lúc mấy chữ hiện lên tờ giấy đẹp như bức tranh. Mọi người xuýt xoa, trầm trồ. Người đàn ông mừng đến run lên, tính chộp lấy bức tranh chữ, nhưng Chiến đã ngăn lại: - Cẩn thận kẽo nhòe mất, để khô mực đã, anh Sáu! Anh ta lừ mắt nhìn Chiến nhưng vẫn để cho Chiến đem bức tranh chữ ra cái bàn ngoài hiên căng ra để hong cho khô. Người đàn ông hất hàm hách dịch: - Thằng Chiến có biết cát tường như ý là gì không? Chiến lắc đầu. Anh ta la lớn: - Nghĩa là niềm vui như ý mình. Viết được chữ mà không hiểu nghĩa, mầy ngu như bò! Anh ta quắc mắt với Chiến rồi ra hè cuộn tờ giấy lại, thủng thẳng đi về. Tôi nóng mặt như chính mình bị xúc phạm: - Ông ta là ai mà hiếp đáp anh dữ vậy? Chiến lặng đi một lát, hình như anh mắc cỡ với chúng tôi lắm. Mặt anh tái đi, giọng run lên: - Trước đây, khi làm giám đốc Văn hóa doanh nhân, hắn là Tổng giám đốc công ty may mặc lớn nhất khu chế xuất, tôi còn nợ hắn một trăm triệu. - Nhưng tại sao hắn ở đây. - Tôi vô trại cải tạo một năm, anh ta cũng vào. Hắn ta làm thất thoát của nhà nước đâu mười ba tỷ, lãnh án bảy năm tù, sau khi được ân xá, hắn về Sài Gòn một thời gian rồi lên đây tậu đất trồng tiêu, trồng điều và lập trang trại chăn nuôi bò sữa. Chiến như nuốt cái gì nghèn nghẹn trong họng. Một lát, anh nói như chiết từng tiếng: - Chữ nghĩa nô lệ cho đồng tiền là nhục, tôi cảm thấy nhục, nhục quá. Chiến vào nhà khệ nệ bưng bình rượu thuốc to cỡ bằng cái vò, một con rắn hổ bằng cổ tay khoanh tròn và những mảnh rể cây, ra tiếp chúng tôi. Tôi và ông Thế chỉ nhấp một ly chiều lòng chủ nhân. Còn Chiến, anh uống rất nhiều, nốc cạn ly này đến ly khác. Hình như anh nuốn dùng chất men để xoá tủi, để chôn hờn chăng? Ngôi nhà Chiến khá rộng, thoáng mát, khu vườn ngoài cây cảnh còn có rất nhiều cây lấy quả, những hàng điều đang trổ hoa, những cây sầu riêng vừa bói quả. Tôi thầm mừng cho Chiến, sau họa nạn có được cơ ngơi thế này là may mắn lắm. Từ đây, anh sẽ làm lại tất cả, người đàn ông mới ngoài năm mươi vẫn còn đủ thời gian xây dựng lại cuộc đời. Chiến cúi mặt một lát rồi ngẩng lên, giọng nẫu nhợt nhưng lời sắc như dao: - Làm người có chữ nhưng không biết giữ mình, là rước lấy sự nhục nhã. Mặt Chiến sồ ra, đôi mắt vằn tia máu, anh ngó ra chân trời bạc. Ngoài kia cao su đang thay lá bừng xanh sẫm. Cái lạnh cuối năm ở vùng rừng như đang dần cô lại Nguyễn Quốc Trung